ÂM NHẠC

  1. Trang chủ
  2. Sản phẩm
  3. ÂM NHẠC
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT LINH CẢM CA

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT LINH CẢM CA

HÀNH TRẠNG BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM

Thích Phước Sơn

* * *

Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩm chất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái tim của những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai là không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này. Mỗi khi nói về Ngài, tựa hồ chúng ta ai cũng biết, nhưng có lẽ không ai dám cho là mình đã hiểu biết đầy đủ tất cả. Thế nên, trong bài này người viết xin giới thiệu cụ thể đôi nét chân dung của Bồ tát một lần nữa, để giúp đại chúng quan chiêm.

Quan-The-Am-02 

Trước hết hãy nói về danh hiệu của Bồ tát. Thông thường các Kinh điển kể về 8 danh hiệu của Ngài như sau:

        1. Quan Thế Âm Bồ tát;
        2. Quán Tự Tại Bồ tát;
        3. Quan Thế Tự Tại Bồ tát;
        4. Quan Thế Âm Tự Tại Bồ tát;
        5. Hiện Âm Thanh Bồ tát;
        6. Quan Âm(*) Bồ tát;
        7. Cứu Thế Bồ tát;
        8. Quan Âm Đại Sĩ.

Trên đây là những danh hiệu phổ biến mà nhiều người thường biết đối với vị Bồ tát này. Thế thì có những Kinh điển chủ yếu nào đề cập đến xuất xứ, vị trí và những hoạt dụng của Ngài?

II. CHÚNG TA THẤY ĐẠI KHÁI HÀNH TRẠNG CỦA BỒ TÁT QUA CÁC KINH:

1. Theo Kinh Đại A Di Đà thì Ngài là Thị vệ bên trái, còn Bồtát Đại Thế Chí là Thị vệ bên phải của đức Phật A Di Đà lo việc cứu độ chúngsinh trong thế giới Ta bà. Cả 3 vị được gọi chung là Tây phương Tam Thánh (3 vịThánh ở phương Tây). Và trú xứ chính thức của các Ngài là cõi Tây phương Tịnhđộ. Phàm khi chúng sinh gặp tai nạn mà chí thành niệm danh hiệu Quan Âm Bồ tát,thì lập tức Ngài đến nơi cứu giúp. Do thế mà Ngài được đức hiệu là Quan Thế ÂmBồ tát (Vị Bồ tát chuyên lắng nghe âm thanh cầu cứu của thế gian).

2. Theo Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thì Ngài có 33 hóa thân,từ thân Phật, Độc giác… đến thân đồng nam, đồng nữ. Ngài thường vận dụng 14năng lực vô úy để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi ách nạn, hoặc đáp ứng những yêucầu chính đáng khi nào chúng sinh thành tâm niệm đến danh hiệu của Ngài.

3. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm thì pháp môn tu của vị Bồ tát này là Nhĩ Căn Viên Thông, nghĩa là tai Ngài có thể được sử dụng như năm cănkhác. Ngài phát tâm tu hành nơi pháp hội của đức Phật Quan Thế Âm, và đức Phật này đã thọ ký cho Ngài khi thành Phật sẽ có Phật hiệu giống như mình. Do đó màNgài có hiệu là Quan Thế Âm. Đồng thời vị Bồ tát này cũng có 32 ứng thân giống như Kinh Pháp Hoa đã mô tả.

Chỗ khác nhau là Kinh Pháp Hoa kể đến 33 ứng thân, còn KinhLăng Nghiêm thì liệt kê 32 ứng thân. Ngoài ra, hai Kinh này còn giống nhau mộtđiểm nữa là cùng mô tả về 14 đức vô úy của vị Bồ tát này. Số lượng và nội dungcủa các đức vô úy này gần y hệt như sau.

4. Theo Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà la ni thì Ngài đã thành Phật từ đời quá khứ cách nay vô lượng kiếp, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì nguyện lực Đại bi, muốn làm lợi ích cho chúng sinh nên Ngài hiện thân Bồ tát để dễ dàng hoàn thành đại nguyện. Thế nên, ngoài danh hiệu Bồ tát Quan Âm như chúng ta thường nghe, có đôi chỗ còn gọi là Phật Quan Âm là vì vậy.

5. Theo Kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương thì Ngàilà Thị vệ của đức Phật Thích ca.

6. Theo Mật giáo thì Ngài là hóa thân của đức Phật A Di Đà.

7. Theo Kinh Hoa Nghiêm thì đạo tràng của Ngài ở núi Bồ Đà Lạc trên biển Nam Hải. Đó là đôi nét sơ lược về hành trạng của Bồ tát Quan Âm mà các Kinh đã đề cập đến. Bây giờ chúng ta sẽ bàn rõ thêm một số vấn đề cụ thểkhác.

Quan-The-Am-06 

III. CUỘC ĐỜI NGÀI QUA CÁC PHƯƠNG DIỆN:

1. Về tín ngưỡng Quan Âm

Tín ngưỡng này phát xuất từ Ấn Độ, Tây Vức, sau đó nhờ công tác phiên dịch Kinh điển mà nó được truyền sang Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản,Triều Tiên, Việt Nam v.v… Bản Kinh có đề cập đến Bồ tát Quan Âm là Kinh PhápHoa Tam Muội, gồm 6 quyển, do Chi Cương Lương Tiếp dịch vào năm Ngũ phụng thứ 2 (255) triều đại nhà Ngô thời Tam Quốc. Đây là bộ Kinh được dịch sớm nhất làloại này. Sau đó, Trúc Pháp Hộ dịch Chánh Pháp Hoa Kinh Quan Thế Âm Phổ Mônphẩm vào năm Thái Khang thứ 7 (286). Rồi Cưu ma la thập dịch Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn phẩm vào năm Hoằng Thỉ thứ 8 (406) đời DiêuTần.

Bắt nguồn từ các Kinh được phiên dịch ra chữ Hán kể trên mà sự tín ngưỡng Quan Âm dần dần phát triển mạnh. Tại Tây Tạng, nền tín ngưỡng này rất thịnh hành. Lạt ma giáo cho rằng đức Đạt Lai Lạt Ma được tái sinh nhiều đờichính là hình ảnh hóa thân của Bồ tát Quan Âm. Ngoài ra, các nước khác tại Châu Á, chịu ảnh hưởng của Phật giáo Bắc truyền thì hình ảnh Bồ tát Quan Âm tượngtrưng cho mẹ hiền cứu khổ, được nhiều người thành kính tin tưởng và rất mực tôn sùng.

2. Về diệu dụng của Quan Âm

Về sức uy thần diệu dụng của vị Bồ tát này theo Kinh Pháp Hoa thì thường có 33 hiện thân như sau:

          1. Thân Phật;
          2. Thân Độc Giác;
          3. Thân Duyên Giác;
          4. Thân Thanh Văn;
          5. Thân Phạm Vương;
          6. Thân Đế Thích;
          7. Thân Tự Tại Thiên;
          8. Thân Đại Tự Tại Thiên;
          9. Thân Thiên Đại Tướng quân;
          10. Thân Tứ Thiên Vương;
          11. Thân Thái tử của Tứ Thiên Vương;
          12. Thân Nhân Vương;
          13. Thân Trưởng giả;
          14. Thân Cư sĩ;
          15. Thân Tể quan;
          16. Thân Bà la môn;
          17. Thân Tỷ kheo;
          18. Thân Tỷ kheo ni;
          19. Thân Ưu bà tắc;
          20. Thân Ưu bà di;
          21. Thân Nữ chúa;
          22. Thân Đồng nam;
          23. Thân Đồng nữ;
          24. Thân trời;
          25. Thân Rồng;
          26. Thân Dược xoa;
          27. Thân Càn thát bà;
          28. Thân A tu la;
          29. Thân Khẩn na la;
          30. Thân Ma hầu la già;
          31. Thân Người;
          32. Thân Phi nhân;
          33. Thân Thần Cầm Kim Cương.

Đó là những hóa thân của Quan Âm Bồ tát. Đồng thời Ngài còncó 14 năng lực Vô úy khác nữa phát sinh hiệu dụng khi nào chúng sinh thành tâmniệm danh hiệu của Ngài, mà Kinh Pháp Hoa cũng như Kinh Lăng Nghiêm đã mô tảnhư sau:

          1. Chúng sinh khổ não trong 10 phương thành kính niệm danh hiệu Ngài, liền được giải thoát;
          2. Chúng sinh gặp lửa dữ…, lửa không thể thiêu đốt;
          3. Chúng sinh bị nước cuốn trôi…, nước không thể nhận chìm;
          4. Chúng sinh vào xứ ác quỉ…, ác quỉ không thể làm hại;
          5. Chúng sinh gặp đao trượng…, đao trượng liền gãy;
          6. Chúng sinh gặp ác quỉ, ác thần…, thì chúng không trôngthấy;
          7. Chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích…, thì xiềng xích đượctháo ra;
          8. Chúng sinh khi vào đường nguy hiểm…, giặc cướp không thểcướp đoạt;
          9. Chúng sinh nhiều tham dục…, liền dứt khỏi tham dục;
          10. Chúng sinh nhiều nóng giận…, liền dứt hết nóng giận;
          11. Chúng sinh nhiều mê ám…, liền dứt hết mê ám;
          12. Chúng sinh muốn cầu con trai…, liền được con trai;
          13. Chúng sinh muốn cầu con gái…, liền được con gái;
          14. Chúng sinh niệm danh hiệu Quan Âm thì được lợi ích bằngniệm tất cả các danh hiệu khác.

Đó là 14 diệu dụng mà đức Bồ tát này dùng để hóa giải áchnạn, ban phát ân huệ cho những chúng sinh nào có lòng thâm tín đối với Ngài.

Quan-The-Am-07  

IV. VỀ HÌNH TƯỢNG QUAN ÂM

Trước hết hãy nói về giới tính của Ngài, thông thường đượcthể hiện qua 2 hình thức, hoặc là Nam tính, hoặc là Nữ tính.

Nam tính: Phật giáo Tây Tạng thờ Bồ tát Quan Âm theo hình thức Nam tính. Đồng thời tương truyền từ đời Đường trở về trước các nước Phật giáo khác tại Châu Á cũng tạc tượng Ngài theo hình thức Nam tính.

Nữ tính: Theo sách Trang Nhạc Ủy Đàm thì từ đời Đường trở về sau, các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa, khi tạc tượng Ngài đều dùnghình thức Nữ tính. Ngoài ra, 3 chi phần khác là đầu, mắt, và tay của Bồ tát thông thường được minh họa như sau:

Đầu: Từ một đầu, 3 đầu, 5 đầu, nghìn đầu, cho đến 84.000đầu.

Mắt: Từ 2 mắt, 3 mắt, cho đến 84.000 mắt.

Tay: Từ 2 tay, 4 tay, cho đến 84.000 tay.

V. VỀ NHỮNG NGÀY KỶ NIỆM

Như tất cả chúng ta đều biết, đặc biệt vị Bồ tát này hằng năm có đến 3 ngày kỷ niệm, đó là kỷ niệm các ngày Đản sanh, Xuất gia và Thànhđạo:

- Ngày Đản sanh: nhằm ngày 19.02 Âl.

- Ngày Xuất gia: nhằm ngày 19.06 Âl.

- Ngày Thành đạo: nhằm ngày 19.09 Âl.

VI. VỀ NƠI CƯ TRÚ

Tất nhiên, do sức thần thông diệu dụng và do bản hoài cứukhổ chúng sinh nên vị Bồ tát này luôn luôn có mặt ở khắp mọi nơi mỗi khi cóngười thành tâm cầu nguyện, nghĩa là có cảm thì có ứng. Nhưng theo lẽ thông thường, chúng ta thấy các Kinh ký tải về nơi cư trú của Ngài như sau:

- Ở Tây phương Tịnh độ: theo Kinh A Di Đà.

- Ở núi Bồ đà lạc trên biển Nam Hải: theo Kinh sớ Hoa Nghiêm sớ.

- Ở núi Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc: theo Kinh QuanThế Âm Bồ tát cứu khổ.

Phổ Đà lạc già thường nhập định

Tùy duyên phổ cảm mỵ bất châu

Tầm thanh cứu khổ độ quần mê

Thị đắc danh vi Quán Tự Tại

Tạm dịch nghĩa:

Trên núi Phổ Đà thường nhập định

Tùy duyên ứng hiện khắp gần xa

Tầm thanh cứu độ kẻ lầm mê

Vậy nên gọi là Quán Tự Tại

VII. SỰ TÍCH

Về sự tích của đức Quán Thế Âm thì nhiều kinh sách tường thuật tiền thân của Ngài:

Nguyên là một vị cổ Phật vì nguyện Đại Bi đã thị hiện làm Bồ Tát trải qua vô lượng vô số kiếp để cứu độ chúng sanh đau thương trong bể khổ.

Trong kinh Lăng Nghiêm chính Ngài đã nói rằng “tôi nhớ vô số kiếp như cát sông Hằng về trước có đức Phật ra đời hiện là Quán Thế Âm Như Lai. Lúc bấy giờ tôi phát bồ đề tâm, trước đại hội Như Lai liền dạy tôi nên từ nơi tam học “Văn, Tư, Tu” mà chứng nhập “Chánh Địa”. Sau cùng Quán Thế Âm Như Lai khen ngợi tôi khéo chứng được pháp môn “Viên thông” và thụ ký cho tôi tên  là QUÁN THẾ ÂM, vì tôi nghe tiếng trong mười phương đều được thông suốt.

Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm ghi chép rằng: “thuở đời quá khứ từ vô lượng kiếp trước nhẫn lại đây, Quán Thế Âm Bồ Tát đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì nguyện lực đại bi nên hiện thân Bồ Tát, tu tập không biết bao nhiêu pháp môn Đà La Ni để tiêu tai giải ách và tăng trưởng phúc tuệ cho chúng sanh.

Lúc đức Thiên Quang Vương  Tịnh Trụ Như Lai ra đời có thuyết chú Đại Bi, đức Quán Thế Âm nhờ nghe thần chú mà đương ở bậc Sơ Địa Bồ Tát vượt chứng lên đến bậc Bát Địa Bồ Tát, thân tâm hoan hỷ, phát nguyện rộng lớn, thọ trì thần chú, độ thoát chúng sanh, nhơn từ đó tự thân sanh ra ngàn tay ngàn mắt. Vì thế chú Đại Bi mà chúng ta hằng ngày trì tụng có tên là: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Kinh Bi Hoa thuật rằng: hằng hà sa số kiếp trước, Ngài là vị thái tử Bất Thuấn (có nơi chép là Bất Huyến) con vua Vô Tránh Niệm. Thời ấy có đức Bảo Tạng Như Lai tại thế. Vua và thái tử nghe Phật thuyết pháp, am hiểu giáo lý cao siêu, hoan hỷ phát nguyện tu hành. Sau vua Vô Tránh Niệm thành Phật A Di Đà và thái tử thành Bồ Tát Quán Thế Âm ở cõi Cực Lạc.

Theo kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thụ Ký thì vô lượng kiếp về sau, lúc Phật A Di Đà nhập diệt, cõi Cực Lạc sẽ đổi thành tên là “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu” càng thêm tốt đẹp hơn trước và Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ thành Phật hiệu Biến Xuất Thế Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai.

Lại nữa trong kinh Quán Âm Tam Muội đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng: Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị cổ Phật và xưa kia chính đức Thế Tôn đã từng làm đệ tử của vị cổ Phật ấy.

Vài đoạn lịch sử trên chỉ là phần nhỏ trong kinh sách. Ngoài ra, còn nhiều truyền thuyết đã thuyết về sự tích của Ngài được truyền bá phổ cập trong dân chúng như: truyện Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện,v.v…

Quan-The-Am-03 

VIII. HẠNH NGUYỆN:

Đức Quán Thế Âm là một vị Phật bổ xứ, Ngài sẽ thay thế đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc, cũng như Bồ Tát Di Lặc sẽ thay thế đức Phật Thích Ca giáo hóa chúng sanh cõi Ta Bà này.

- Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho Đại từ

- Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho Đại trí

- Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho Đại hạnh

- Bồ Tát Thế Chí tượng trưng cho Đại lực

- Bồ Tát Địa Tạng tượng trưng cho Đại nguyện.

Tất cả hạnh nguyện của đức Quán Thế Âm đều phát sanh ở lòng Đại Bi. Đại Bi là một thể có hai dụng: một là độ thoát chúng sanh khổ não, hai là phát sinh trí giác Bồ Đề. Ngài là một pháp thân Đại Sĩ đã nhập thể Đại Bi. Ngài là hiện thân của Đại Bi. Ngài là vị Đại Bi giáo chủ, phát nguyện rộng lớn, tướng tốt trang nghiêm như 4 câu kệ sau đây đã tán dương:

Khể Thủ Quan Âm Đại Bi chủ,

Nguyện lực hồng thâm, tướng hảo thân

Thiên thủ trang nghiêm phổ độ trì

Thiên nhãn quang minh biến quang chiếu

Tạm dịch:

Kính lạy đức Đại Bi Quán Âm

Nguyện lực rộng sâu, thân tốt đẹp

Ngàn tay trang nghiêm khắp độ trì

Ngàn mắt sáng ngời khắp soi xét.

Do nhân tu pháp “Nhĩ Căn Viên Thông” đức Quán Thế Âm nhập thể chân, chứng được chơn tâm thanh tịnh sáng soi viên mãn khắp cả mười phương thế giới nên đặng 2 món công đức thù thắng:

- Trên hiệp với đức “Từ độ sanh” của chư Phật.

- Dưới hiệp với lòng “Bi ngưỡng” của chúng sanh.

Nhơn đó, Ngài được diệu dụng sau nầy:

        1. Nhờ chứng được chỗ đồng thể với chư Phật, Ngài hiện ra 32 ứng thânđể tùy thuận chúng sanh mà hóa độ…
        2. Nhờ chứng được chỗ đồng thể với chúng sanh, Ngài ban cho muôn loài 14 công đức vô úy (tức là 14 món không sợ)

Ngoài ra, đức Quán Thế Âm Bồ Tát còn được 4 bất tư nghì vô tát diệu đức (tức là 4 đức mầu vô tác không thể nghĩ bàn):

        1. Hiện nhiều đầu, nhiều tay và nhiều mắt để cứu độ chúng sanh, khiến cho đặng Đại tự tại.
        2. Hiện hình nói thần chú để bố thí tánh không sợ.
        3. Khiến chúng sanh bỏ cái tâm tham lam mà bố thí cúng dường.
        4. Khiến chúng sanh cầu chi được nấy: vợ, con, trường thọ, chánh định, niết bàn v.v.

Nguyên Ngài là một vị cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai nhưng vì thương xót chúng sanh chìm đắm trong bể khổ nên Ngài phương tiện hiện thân làm Bồ Tát thệ nguyện rộng lớn, độ tận chúng sanh. Khắp mười phương thế giới từ Ta Bà sang Cực Lạc, từ Cực Lạc sang thế giới Tịnh Lưu Ly, đâu đâu cũng có hóa thân của Ngài dưới mọi hình tướng để tế độ muôn loài:

Phổ Môn thị hiện,

Cứu khổ tầm thanh,

Từ bi thuyết pháp độ mê tân

Phó cảm ứng tùy hình,

Tứ hải thanh ninh

Bát nạn vĩnh vô xâm

Tạm dịch nghĩa:

Phổ Môn thị hiện khắp mười phương

Cứu khổ tầm thanh độ thế gian

Một niệm từ bi năng thuyết pháp

Vớt người thoát khổ chốn mê tân

Tùy cơ cảm ứng, thân hình hóa

Tứ hải chúng sanh tận độ an

Ách nạn khổ nguy thường cứu giải

Đời đời chẳng vướng tám tai nàn.

Hình tượng của Ngài mà thường thờ phụng là hóa thân phụ nữ, biểu hiện lòng từ bi quảng đại của Ngài đối với chúng sanh như mẹ hiền thương con vậy.

Khi thấy Ngài một tay cầm nhành dương liễu, một tay bưng bình cam lộ đó là hình ảnh tượng trưng Bồ Tát luôn luôn tế độ quần sanh, rẫy nước cam lộ dập tắt phiền não, đem lại an lạc cho muôn loài:

Phép Bồ Tát cao siêu huyền diệu

Quán Thế Âm liệu lượng hóa thân

Nhành dương quét sạch trược trần

Tịnh bình cam lộ giải tan não phiền.

Khi chiêm ngưỡng tượng ảnh đức Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi nhập định nơi pháp tòa tại rừng trú núi Phổ Đà, tranh ảnh ấy cho biết rằng: Tuy tùy duyên thuyết pháp để giáo hóa chúng sanh nhưng Ngài vẫn không rời pháp tòa chánh định.

Lại có khi thấy Bồ Tát đi trên hoa sen cả ba đào, tượng ảnh ấy biểu hiện biển đời đau khổ đầy sóng gió, nhưng Ngài tự tại luôn luôn và hoan hỷ cứu vớt mọi loài, không bao giờ từ bỏ chúng sanh trong lúc hiểm nghèo:

Trí tuệ rộng sâu đại biện tài

Ngự tòa sen báu tuyệt trần ai

Hào quang chiếu phá muôn ngàn bịnh

Cam lộ tiêu trừ vạn kiếp tai.

Bi tâm của Ngài rộng lớn vô cùng, phương tiện của Ngài thiện xảo vô tận. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ngớt tán thán hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm trong phẩm Phổ Môn của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một bộ kinh Đại Thừa cao siêu bực nhứt nói về Nhứt thừa thật tướng, nghĩa lý nhiệm mầu, khai quyền hiển thật, thể dụng viên dung.

Quan-The-Am-05 

IX. ẢNH HƯỞNG

Hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm cao cả vô cùng, bi tâm của đấng Từ mẫu cứu khổ rộng lớn vô tận, cho nên hầu hết các nước Phật giáo đều tôn thờ hình tượng tranh ảnh của Ngài, và tán thán công đức thù thắng của Ngài.

Riêng tại Việt Nam, một nước mà tư tưởng dân tộc đã thấm nhuần Phật giáo gần hai ngàn năm nay, triết lý nhà Phật đã in sâu vào trí não, đã ăn đậm vào tâm hồn tổ tiên chúng ta qua biết bao thế hệ, cho nên ngày nay, mặc dầu sanh vào thời mạt Pháp, chúng ta cũng được thiện duyên gặp Chánh Pháp, đó là một phần lớn nhờ hồng ân Tam Bảo, nhưng cũng một phần nào nhờ thừa hưởng di truyền quý báu của Tổ tiên trong huyết quản.

Thấm nhuần Giáo lý nhà Phật tức thấm nhuần tư tưởng Từ Bi mà Bồ Tát Quán Thế Âm là tượng trưng hùng hồn cho đức tánh cao đẹp ấy.

Chiêm ngưỡng tượng ảnh Ngài, thì cảm thấy:

        1. Bầu không khí ấm cúng, an lành.
        2. Ánh sáng Đại Bi tỏa chiếu khắp thân mình.
        3. Tâm hồn hiền lành, êm dịu, lòng càng thương người mến vật.
        4. Niềm an ủi vỗ về như trẻ thơ bên cạnh mẹ hiền.
        5. Tánh tình bạo dạn hơn, lòng trở nên vững chắc thêm, không sợ tà ma ác quỷ, không sợ tai nạn nguy biến.
        6. Ý chí cương quyết tinh tấn tu niệm, lòng càng tin tưởng mãnh liệt vào phép Phật nhiệm mầu, đem lại an lạc cho muôn loài.

Ngoài ra ảnh hưởng của đức Quán Thế Âm Bồ Tát trong xã hội Việt Nam không phải là ít.

Nhìn qua nền văn hóa dân tộc, biết bao nhiêu truyện tích, thi ca, nhạc kịch, phim ảnh, hội họa v.v…đều nhứt tề ca ngợi hạnh nguyện hồng thâm và tán dương oai lực thần thông của Ngài.

Các tác phẩm ấy tuy không diễn đạt hoàn toàn đầy đủ chân tinh thần Đại Bi nhưng cũng đã biểu lộ một phần nào lòng ngưỡng mộ đức Mẹ hiền cứu khổ.

X. LÝ DO CẢM ỨNG

Tại sao có lòng ngưỡng mộ đặc biệt như thế?

Chẳng qua không ngoài uy đức lẫy lừng của Bồ Tát Quán Thế Âm và lý do cảm ứng hiển nhiên không thể chối cãi được.

Bi tâm của Bồ Tát luôn luôn hưởng ứng với khổ tâm của chúng sanh kêu cầu. Vì có Cảm tất có Ứng, theo như luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nghĩa là những vật cùng một thứ tiếng thì ứng nhau (như một con gà gày thì bầy gà đều gáy), những vật cùng một khí loại thì tìm nhau (như từ thạch thì hút sắt).

Vậy mỗi khi chúng sanh lâm nạn cầu cứu thì Bồ Tát hiện thân cứu độ. Sự hiện thân của Ngài chỉ là một công dụng của lòng Đại Bi.

Trong mục “Tìm hiểu Quán Thế Âm Bồ Tát” Đại đức Thích Viên Giác đã trình bày lý do cảm ứng như sau:

Khi người nào chuyên tâm chú niệm danh hiệu Ngài, tức là người ấy đã chuyên chú niệm đức tánh Từ Bi của họ. Đồng thời tin tưởng của họ cũng đã nhập vào đức tánh Từ Bi của Ngài. Đồng thời đức tánh Từ Bi của Ngài cũng giao cảm với đức tánh Từ Bi cả người ấy.

Ví như hai luồng ánh sáng tương tiếp giao hòa với nhau thì ánh sáng tỏa khắp rộng ra giữa không gian. Nói cách khác: khi tâm tánh của chúng ta đã thanh tịnh một phút nào đó, tức thì lúc đó chúng ta đã cảm nhận được ánh sáng từ quang của Ngài chiếu vào tâm tánh của chúng ta vậy. Như biển lặng sóng ngừng thì in rõ nền trời xanh vào lòng biển cả, nước hồ thu trong thì ánh trăng thu rọi vào.

“Trăng kia vẫn bình thản và thản nhiên chiếu nhưng nước đục thì không thấy trăng, chớ không phải trăng không soi đến hồ nước đục. Trời xanh vẫn hiển hiện vào lòng bể cả, nhưng bể cả sóng dồi thì làm sao thấy được nền trời xanh quang đãng.

Lòng Từ Bi của Ngài không bỏ một ai, nhưng vì ai đó sóng lòng còn xao động, tâm tánh còn thiên tà, không tin tưởng, không xưng niệm danh hiệu đấng Từ Bi. Người ấy không thấy đức Từ Bi, không thoát được khổ lụy, bị tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến nhận chìm xuống biển khổ.”

Để làm sáng tỏ thêm lý do cảm ứng, xin dẫn ra một thí dụ nữa: những làn sóng điện trên không gian thường chuyển đưa tin tức do các đài phát thanh phóng ra giữa vũ trụ, nhưng ai không có máy thâu thanh tốt thì không nhận được tin tức. Nếu máy thâu thanh tốt và đài phát thanh mạnh thì bất cứ ở đâu cũng nhận được tin tức. Máy thu thanh là nhân, đài phát thanh là duyên, nhân duyên đầy đủ thì tin tức phát hiện.

Ở đây, lòng khẩn xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm là nhân, Bi nguyện độ sanh sâu rộng của Ngài là duyên. Nhân duyên gặp gỡ thì cảm ứng rõ ràng: hoặc mộng thấy Ngài hiện thân chỉ bảo, hoặc thấy hào quang Ngài chiếu sáng, hoặc thấy các điềm lành khác như chuyển họa thành phước, tật bệnh tiêu trừ, tai qua nạn khỏi v.v…

Chỉ có những người chí tâm thành kính xưng niệm danh hiệu mới nhận thấy rõ sự cảm ứng ấy, cũng như chỉ những máy thâu thanh tốt mới bắt được tin tức rõ ràng.

Hơn nữa, người nào thường làm việc phước thiện, không tham lam mà bố thí, không giận dữ mà nhẫn nhục, không ghen ghét mà tùy hỷ, không hẹp hòi mà bao dung, hay thương xót kẻ đau khổ, cứu giúp kẻ lâm nạn, người đó là hình ảnh của Từ Bi, của Bồ Tát, của Phật Đà, người ấy thường được hưởng phước lạc và cầu nguyện gì đều được thỏa mãn.

Trái lại, người nào tư tưởng tà vạy, ngôn ngữ bất chính, cử chỉ hung tợn, có tật chấp nê, có tánh đố kỵ, hay ganh ghét kẻ hơn mình, thường khinh rẻ kẻ bần cùng, hất hủi kẻ tàn tật, người đó chính là hình ảnh của tàn bạo, của dạ xoa, của la sát, người ấy thường chịu quả báo đau khổ và lúc lâm nạn không gặp ai cứu vớt.

Vậy muốn thoát khổ, được vui, thiết tưởng đừng gây nghiệp ác mà tạo nghiệp lành, phải bỏ lối sống vị kỷ, nếp sống hẹp hòi, nếp sống thiển cận mà tập sống vị tha, sống rộng, sống sâu, sống với bác ái, sống với Từ Bi, sống theo gương đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Quan-The-Am-04  

XI. LỢI ÍCH XƯNG NIỆM

Bồ Tát Quán Thế Âm xưa kia là một vị cổ Phật đã tu vô lượng kiếp để tế độ quần sanh. Vì muốn cứu vớt muôn loài trầm luân trong biển khổ, Ngài không ngại hòa quang hỗn tục, hạ mình lăn lộn trong tam đồ lục đạo.

Ngài hoan hỷ thị hiện Bồ Tát, thực hành hạnh nguyện Đại Bi, tầm thanh cứu khổ, độ thoát chúng sanh. Khắp hoàn vũ nơi nào có người đau khổ khẩn cầu, nơi đó có Ngài hóa thân cứu độ.

Ai thành tâm xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì:

        1. Thoát khỏi tam tai bát nạn.
        2. Xa lìa tam độc (tham, sân, si).
        3. Các điều nguyện cầu đều được thỏa mãn.

Xưng danh hiệu Ngài là un đúc giống Từ Bi vào tâm địa chúng ta và cũng là một phương pháp khai thác những năng lượng tiềm tàng trong thân tâm của chúng ta là cứu khổ, trừ mê, diệt tai nạn. Nghĩa là giờ phút nào hướng về Từ Bi, tức là giờ phút ấy dẹp tan ma quân tàn ác hãm hại chúng ta.

Nếu trọn đời cứ nhứt tâm cương quyết xưng niệm đấng Từ Bi thì trọn đời diệt sạch đau khổ, sẽ được an vui hoàn toàn.

Như vậy xưng niệm danh hiệu Ngài có nhiều lợi ích như thế. Hột giống Từ Bi một khi gieo vào tâm địa, danh hiệu của Ngài đã lọt vào tai thì kiếp kiếp nó thành hạt giống Bồ Đề, hiện tại nó là một năng lực tiêu trừ tai chướng. Phúc đức càng cao như thủy triều dâng lên vô tận, tội lỗi tiêu mòn như sương mai tan rã dưới ánh bình minh (Thích Viên Giác).

Phẩm Phổ Môn dạy rằng: Người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát cho đến lễ bái cúng dường Ngài một thời được phước bằng kẻ thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ Tát và trọn đời cúng dường các thứ ăn, uống, áo, quần, giường, ghế, thuốc thang. Phước đức ấy trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, không bao giờ cùng tận.

Vì thọ trì danh hiệu Ngài được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế, nên đức Phật Thích Ca khuyên chúng ta thường xưng niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm.

Xưng niệm danh hiệu Ngài tức tưởng nhớ đức tánh Đại Bi, tán dương hạnh nguyện cứu khổ và thần phục oai linh thâm diệu của Quán Thế Âm Bồ tát.

Công đức của Ngài vô lượng, thần thông của Ngài vô cùng, trí tuệ của Ngài vô biên, thì phước báo của người xưng niệm danh hiệu Ngài cũng vô tận.

Quán Âm Bồ Tát diệu nan thù,

Thanh tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu,

Thiên xứ tín cầu thiên xứ ứng,

Mê xuyên thường tác độ nhân chu.

Tạm dịch:

Quán Âm Bồ Tát rất linh kỳ,

Kiếp kiếp chuyên tu phép Đại Bi,

Khắp xứ tin cầu đều ứng hiện,

Thuyền từ độ khách thoát sông mê.

XII. KẾT LUẬN

Qua những dòng sơ lược trình bày ở đoạn trên, người Phật tử phải làm gi để ghi ơn đức của người Mẹ hiền cao cả?

Ngoài việc dâng hương hoa ngào ngạt lẫn với hương lòng thành kính, tưởng nên tụng kinh Phổ Môn, trì chú Đại Bi và nhứt là thành khẩn xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để ôn lại ý nghĩa hồng danh lừng lẫy, sự tích vẻ vang và hạnh nguyện cao đẹp của Đại Sĩ Thí vô-úy, đồng thời biểu lộ lòng tri ân vô tận đối với đấng Từ Mẫu cứu khổ.

Sự biết ơn ấy sẽ giúp chúng ta noi gương Ngài phát lòng Đại Bi, gieo tỏa tình thương khắp trong quần sanh.

Sự biết ơn ấy sẽ đưa đến gần Ngài hơn, hầu mong được Bồ Tát từ bi gia hộ chúng ta trên đường tu tập đầy chông gai, chướng ngại.

Sự biết ơn ấy là chìa khóa mở rộng tâm hồn giúp chúng ta khai thác những công năng trong thâm tâm đem ra ứng dụng để cứu nhơn độ thế.

Vậy hãy nên thành tâm khẩn cầu Ngài rưới nước cam lộ rửa sạch mọi oán thù, chiếu hào quang soi sáng đến mọi tâm hồn, ngỏ hầu đưa thế giới đến hòa bình, chúng sanh đến an lạc.

Quan Âm Đại Sĩ

Phổ hiệu viên thông

Thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm

Khổ hải phiến từ phong

Phổ tế tâm dung

Sát sát hiện vô cùng

Tạm dịch:

Kính lạy Đại Sĩ Quan Âm,

Viên thông lừng lẫy, tiếng tăm xa gần

Mười hai nguyện lớn vô ngần,

Mênh mông biển khổ thổi cơn gió lành

Một lòng độ khắp chúng sanh

Nơi nơi ứng hiệu cảm linh không cùng.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.

NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT.

Tam-Thanh-TP 

Bình luận

Không có đánh giá nào cho sản phẩm này.

Chú ý: Không sử dụng các định dạng HTML!
    Chưa tốt           Tốt